Lịch sử Sparta

Cùng với các thành bang khác ở Hy Lạp, Sparta có hai nhà vua cùng cai trị trong suốt lịch sử tồn tại, cả hai đều thuộc dòng dõi Heracles. Hai vị vua này thống lĩnh ba quân trên trận tiền và chăm lo các vấn đề tôn giáo. Nhà nước Sparta là một sự kết tinh giữa các yếu tố của chế độ quân chủdân chủ dưới sự lãnh đạo của một nhóm chính trị đầu sỏ. Rất ít người phải thực hiện công việc của quần chúng.[5] Plato kể rằng sau khi trở về từ cuộc chiến tranh muời năm ở thành Troia, người Dorian giành lấy quyền cai trị vùng đất Messene, Argos và Lacedaemon (sau này là thành bang Sparta). Thành Troia bị tiêu diệt khoảng năm 1250 trước công nguyên. Ba nhà nước này hợp thành liên minh của người Dorian nhưng sau này, chỉ có Sparta giữ nguyên thể chế ban đầu đó. Về sau, Sparta chinh phục nhiều vùng đất khác, bao gồm cả vùng Messene.

Vào thế kỷ 18 trước công nguyên, các thành bang ở Hy Lạp lớn mạnh đến mức không còn đủ đất đai cho dân số ngày một gia tăng. Họ chỉ còn cách là tiến ra biển. Từ khoảng năm 750 trước công nguyên người Hy Lạp bắt đầu một tiến trình kéo dài 250 năm nhằm mở rộng, thiết lập thuộc địa về mọi hướng. Về hướng Đông, bờ biển Aegea thuộc Tiểu Á được chiếm làm thuộc địa đầu tiên, tiếp theo là Kypros, những vùng ven biển của Thrace, vùng biển Marmara và vùng phía nam Biển Đen. Cuối cùng thuộc địa của Hy Lạp mở tới tận phía Đông Bắc vùng Ukraina ngày nay. Về phía Tây, Albania, Sicilia và Nam Ý được thiết lập thuộc địa, sau đó là vùng ven biển phía Nam của Pháp, Corse, và kết thúc ở Đông Bắc Tây Ban Nha. Những thuộc địa của Hy Lạp cũng được lập tại Ai cậpLibya. Siracusa, Napoli, MarseilleIstanbul ngày nay đã bắt đầu từ những thuộc địa của Hy Lạp là Syracusa, Neapolis, MassiliaByzantium.

Vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên Hy Lạp đã trở thành một khu vực văn hóa và ngôn ngữ rộng lớn hơn nhiều so với diện tích địa lý của Hy Lạp hiện nay. Những vùng đất thuộc địa của Hy Lạp không bị kiểm soát về mặt chính trị vẫn duy trì những kết nối tôn giáo và thương mại với những thành phố thiết lập ra chúng. Người Hy Lạp tổ chức thành những xã hội độc lập cả ở quê nhà và bên ngoài. Thành phố (polis) trở thành đơn vị chính quyền cơ bản của Hy Lạp.

Cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư

Khi Hoàng đế Cyrus Đại Đế dấy lên lập Đế quốc Ba Tư, ông làm vua xứ LydiaKroisos lo sợ. Vua Kroisos đã thành lập liên minh với người Sparta để đánh vua nước Ba Tư.[6] Nhưng rồi cuộc chiến Lydia - Ba Tư kết thúc với thất bại của vua xứ Lydia và sự thất thủ của kinh đô Sardis về tay vua nước Ba Tư, không những thế vua xứ Lydia còn bị bắt sống vào năm 547 trước Công Nguyên.[7] Người Sparta rất đau buồn trước sự xấu số của Kroisos.[8] Sau khi Cyrus Đại Đế thắng trận, các thành bang Hy Lạp ven biển cũng rơi vào tay của ông. Nhưng xứ Sparta cử một nhóm người Sparta bơi thuyền đến bờ biển châu Á, theo suy nghĩ của nhà sử học Herodotos, hẳn là để họ theo dõi vua Ba Tư. Trên đường đến Phocaea, họ phái những người xuất sắc nhất trong số họ đến Sardis Lacrines để - trên danh nghĩa người Sparta - cấm chỉ nhà vua được quyền gây chiến tranh với toàn dân Hy Lạp. Phái bộ sứ thần Sparta nói xong, Cyrus Đại Đế giận dữ hỏi những người Hy Lạp ở gần ông:[9]

Bọn Sparta gồm những ai ? Bọn chúng có bao nhiêu tên, mà dám vô lễ đến thế ?
— Cyrus Đại Đế

Những người Hy Lạp xung quanh trả lời. Nhà vua sau đó đe dọa phái bộ sứ thần Sparta, ông nói: "...Quả nhân mà còn ở đây thì bọn Sparta sẽ chịu những tai họa đủ để chúng phải lo sợ..." Sau đó, ông giao một viên tướng cai quản thành Sardis, còn ông thì bỏ về.[9] Khi Hoàng đế Ba Tư là Xerxes I xua đại quân chinh phạt Hy Lạp, vua xứ Sparta là Leonidas I thân chinh thống lĩnh ba quân kháng chiến trong trận Thermopylae vào năm 480 trước Công Nguyên. Ông chỉ có 298 chiến binh đánh "rợ Á" trong trận chiến này, nhưng ông sẵn sàng hy sinh, làm gương cho ba quân. Sau một cuộc đấu tranh anh dũng, vua Leonidas I hy sinh cùng với nhiều vị danh tướng thành Sparta.[10] Cũng theo Herodotos, toàn quân Sparta vẫn chiến đấu khốc liệt, đẩy lui quân Ba Tư và giữ được thi hài của vua Leonidas I.[11] Sau thất bại cuối cùng của quân Sparta, vua nước Ba Tư lấy được thi hài của Leonidas, và "hành quyết" ông.[12] Tuy thất trận nhưng đây là một trận đánh vinh quang của các chiến binh Sparta.[4] Cuối cùng, Hải quân các thành bang Hy Lạp do Đô đốc Sparta là Eurybiades chỉ huy đại phá tan tác quân Ba Tư do vua Xerxes I thân chinh thống lĩnh trong trận thủy chiến tại Salamis vào năm 480 trước Công Nguyên.[13] Với thất bại này, Xerxes I phải chạy tháo thân về nước, nhưng để lại cận tướng Mardonius ở Hy Lạp. Sau khi Mardonius đốt cháy thành Athena, ông ta chinh phạt vùng Plataea làm nhân dân ở đây phải cầu cứu người Sparta, người Sparta nhận lời và danh tướng Pausanias kéo những chiến binh tinh nhuệ nhất thành Sparta đến đánh. Trong trận chiến ở Plataea, nhờ vào tài năng tác chiến và binh khí thượng hạng của mình, kết hợp với lòng quyết tâm trả thù cho Leonidas I, quân Sparta đại thắng và tiêu diệt được cả Mardonius.[14][15] Không những thế, trong trận thủy chiến tại Mycale, Hải quân Sparta do vua Leotychides thân chinh thống lĩnh đập tan nát Hải quân Ba Tư.[16]

Những năm tháng hoàng kim và suy sụp

Trong cuộc chiến tranh Peloponnesus, lực lượng hải quân Sparta non trẻ đã đánh tan tác quân Athena, làm chấm dứt vai trò liệt cường của Athena thời đó và đưa thành bang nhà trở thành một liệt cường quân sự số một tại Hy Lạp.[17] Nhưng rồi, vào năm 371 trước Công Nguyên, với chiến thuật "đánh dọc sườn", danh tướng xứ ThebesEpaminondas đánh tan tác quân Sparta trong trận Leuctra.[18][19] Như vậy là đúng 180 năm sau khi danh tướng Pausanias đại phá tan tành quân Ba Tư của thống soái Mardonius trong trận Plataea, các chiến binh Sparta đã phải nếm mùi thất bại, tại cái nơi chỉ cách Plataea có 5 dặm. Quân Thebes phát huy thế thượng phong, xâm lược Lacedaemon, lấy mất vùng Messene. Từ một liệt cường bá chủ Hy lạp, Sparta suy sụp thành một liệt cường hạng trung bình.[20]

Trong cuộc Chiến tranh Thần thánh lần thứ ba (356 - 346 trước Công Nguyên), vua Archidamos III thân chinh cầm đầu đại quân Sparta đi đánh vùng Megalopolis, nhằm lấy lại vùng Messene cũng như đưa thành bang nhà trở thành liệt cường thống trị vùng Peloponnesus như năm xưa. Ông kéo đại binh đến Arcadia, và cắt đường của người Argos đến Megalopolis. Sau đó, ông xuất binh đánh tan tác người Argos. Đại quân Thebes kéo rốc đến hợp binh với người Arcadia và người Argos, và dù đông hơn hẳn quân Sparta, do kỷ luật yếu kém nên quân Thebes bại trận. Người Argos và Arcadia phải tháo chạy về thành. Sau khi tàn phá Arcadia cho đã đời, người Sparta rút về nước. Quân Sparta bị quân Thebes đánh bại trong hai trận chiến, nhưng rồi trong trận đánh cuối cùng họ đánh thắng được quân Thebes. Cuộc chiến trở nên bế tắc để rồi người Sparta và Megalopolis phải tái lập hòa bình với nhau. Mùa Thu năm 338 trước Công Nguyên, vua xứ MacedoniaPhilippos II thân chinh xuất binh đánh Peloponnesus. Ông giáng cho người Thebes một đòn sấm sét trong trận đánh ở Chaeronea, trong khi người Sparta vẫn giữ thái độ trung lập. Toàn bộ vùng Peloponnesus phải thần phục Philippos II, nhưng do tự hào với truyền thống lịch sử của mình, người Sparta cương quyết không chịu khuất phục vua xứ Macedonia.[21] Sau đó, Philippos II có đến xâm phạm vùng Laconia nhưng ông chẳng dám đánh trận với người Sparta, song với việc người Sparta không tham gia liên minh với ông, họ đã bị cô lập một cách hiểm nguy.[22]

Vào năm 336 trước Công Nguyên, Alexandros Đại Đế nối chí vua cha Philippos II, lên đường chinh phạt Ba Tư. Trong lúc vị vua trẻ tuổi đang thân chinh thống lĩnh các chiến binh tinh nhuệ Macedonia chinh chiến ở Á châu, người Sparta tiến hành khiêu chiến. Vua Agis III dan díu với Triều đình Ba Tư, đồng thời ông đánh tan nát một đạo quân Macedonia do Corrhagus chỉ huy, buộc quan Tổng đốc quân sự xứ ThraceAntipatros phải kéo đại quân ra đánh. Hai đoàn quân giáp chiến ác liệt với nhau vào năm 331 trước Công Nguyên tại vùng Megalopolis. Vua Agis III chiến đấu anh dũng và tiêu diệt được nhiều binh sĩ Macedonia, nhưng rồi quân Macedonia đại thắng, Agis III trận vong cùng với biết bao binh sĩ Sparta. Khi Antipatros báo tin chiến thắng cho Alexandros Đại Đế, vua không hài lòng với chiến thắng này, nhưng dù sao đây cũng là một thất bại quyết định của quân Sparta.[23]